ĐỀ CƯƠNG TUYÊN TRUYỀN KỶ NIỆM 90 NĂM NGÀY TRUYỀN THỐNG DÂN QUÂN TỰ VỆ VIỆT NAM (28/3/1935 – 28/3/2025)

Phần một

TÓM TẮT TRUYỀN THỐNG 90 NĂM XÂY DỰNG CHIẾN ĐẤU VÀ TRƯỞNG THÀNH CỦA LỰC LƯỢNG DQTV

 Dân quân tự vệ (DQTV) là lực lượng vũ trang quần chúng không thoát ly sản xuất, công tác; là lực lượng bảo vệ Đảng, chính quyền, tính mạng, tài sản của Nhân dân, tài sản của Nhà nước ở địa phương, cơ sở; sẵn sàng chiến đấu, chiến đấu, phục vụ chiến đấu, làm nòng cốt cùng toàn dân đánh giặc ở địa phương, cơ sở khi có chiến tranh; tham gia xây dựng nền quốc phòng toàn dân, khu vực phòng thủ, phòng thủ dân sự, bảo vệ an ninh quốc gia và bảo đảm trật tự, an toàn xã hội, đấu tranh phòng, chống tội phạm.

 Kế thừa và phát huy truyền thống dựng nước, giữ nước hàng nghìn năm của dân tộc; với sự vận dụng đúng đắn, sáng tạo nguyên lý chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể của nước ta, ngay từ khi mới ra đời Đảng ta đã đề ra chủ trương về “Vũ trang công nông” (Luận cương chính trị của Đảng Cộng sản Đông Dương). Trong những năm 1930 – 1931 đã có rất nhiều cuộc bãi công, biểu tình liên tiếp nổ ra ở khắp các địa phương trong cả nước, mà đỉnh cao là Xô Viết – Nghệ Tĩnh. Thời kỳ này Đảng đã xác định một số vấn đề cơ bản về khởi nghĩa vũ trang, vũ trang bạo động; coi khởi nghĩa vũ trang là sự nghiệp của đông đảo quần chúng và để chuẩn bị khởi nghĩa vũ trang phải lấy việc xây dựng lực lượng chính trị của quần chúng làm nền tảng. Do đó trong nghị quyết hội nghị Trung ương lần thứ 3 (tháng 3/1931) Đảng ta chủ trương, khi dành được chính quyền thì thành lập “Quân đội công nông”.

  Ngày 28/3/1935, Đại hội Đảng lần thứ nhất họp tại Ma Cao (Trung quốc) Đảng ta đã ban hành “Nghị quyết về Đội tự vệ”. Đây là nghị quyết đầu tiên của Đảng về tổ chức, chỉ đạo xây dựng, huấn luyện và hoạt động của lực lượng tự vệ. Nghị quyết về Đội tự vệ đã khẳng định “Tự vệ đội càng mạnh tức là có điều kiện thuận lợi để sau này tổ chức du kích chiến tranh và vũ trang bạo động”. Đây là một dấu ấn quan trọng mở ra một thời kỳ mới, là tư tưởng chỉ đạo chiến lược của Đảng xuyên suốt qua các giai đoạn cách mạng. Có thể nói nghị quyết về Đội tự vệ là khởi đầu của tư tưởng vũ trang toàn dân và tư tưởng chiến tranh nhân dân với phong trào toàn dân đánh giặc.

  Ngay sau khi có Nghị quyết của Đảng, các đội tự vệ công nông mang tính chất là những tổ chức vũ trang quần chúng ra đời, đây là tiền thân của các đội Cứu quốc quân, Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân sau này.

  Thời kỳ chuẩn bị tổng khởi nghĩa giành chính quyền (năm 1940 – 1945), đi đôi với chủ trương mở rộng và củng cố các đội tự vệ ở khắp các vùng nông thôn, thành thị; Đảng ta đã chủ trương thành lập các đội tự vệ cứu quốc, các tổ, tiểu đội du kích cứu quốc và các đội du kích chính thức. Các đội tự vệ đã trở thành tổ chức vũ trang quần chúng ở các đoàn thể cứu quốc mặt trận Việt Minh, được xây dựng ở các căn cứ, địa phương có điều kiện; đã phối hợp với các đơn vị cứu quốc quân Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân làm nòng cốt cho quần chúng thực hiện vũ trang khởi nghĩa từng phần tiến hành chiến tranh du kích cục bộ, xây dựng và mở rộng các căn cứ địa Việt Bắc, Đông Bắc, Ninh Bình, Thanh Hóa, Ba Tơ… Đến tháng 8/1945 lực lượng DQTV đã phát triển lên tới vài chục nghìn người cùng với giải phóng quân và toàn dân thực hiện thắng lợi cuộc tổng khởi nghĩa.

  Ngày 02/9/1945 nước Việt Nam dân chủ cộng hòa ra đời trong vòng vây của các thế lực đế quốc và phản động quốc tế, trong một thời gian ngắn lực lượng DQTV được mặt trận Việt Minh tổ chức rộng khắp ở các làng, xã, đường phố trong cả nước gồm hàng chục vạn người đã tích cực tham gia bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ.

  Sau cách mạng tháng 8/1945, quân đội Pháp được quân Anh giúp sức đã nổ súng gây chiến tranh xâm lược nước ta lần thứ 2 (ngày 23/9/1945). Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ các địa phương ở Miền nam, nhất là Nam bộ và cực Nam Trung bộ, lực lượng DQTV đã phối hợp với bộ đội chủ lực anh dũng chiến đấu ngăn chặn địch, diệt ác, trừ gian, phá hoại đường giao thông…

  Trong cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân Pháp, lực lượng DQTV được nhanh chóng phát triển rộng khắp trong cả nước, ngày càng lớn mạnh; từ chỗ là lực lượng vũ trang quần chúng do mặt trận chỉ đạo, đã từng bước được thống nhất về tổ chức, là một bộ phận trong lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam.

  Từ đầu năm 1947, lực lượng DQTV đã phát triển lên gần 3 triệu người; có phòng DQTV (nay là Cục DQTV) và hệ thống cơ quan DQTV từ Quân khu đến các địa phương được thành lập để chỉ đạo xây dựng phong trào. Trong điều kiện hết sức khó khăn, gian khổ, bằng các loại vũ khí thô sơ, tự tạo và vũ khí lấy được của địch, lực lượng DQTV và du kích đã cùng nhân dân xây dựng làng xã chiến đấu, kiên cường bám đất, bám dân, tiêu diệt, phá tề, trừ gian; tích cực phối hợp với bộ đội địa phương chống địch càn quét, bao vây, bức hàng, bức rút nhiều đồn bốt địch, giải phóng làng xã, mở rộng các khu căn cứ du kích; thực hiện tích cực kiềm chế, căng kéo lực lượng địch, buộc địch phải phân tán đối phó, tạo điều kiện cho ta bảo vệ vùng tự do và phục vụ các chiến dịch trên khắp các chiến trường.

  Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, lực lượng DQTV và bộ đội địa phương đã tiêu diệt 23,1 vạn/50 vạn quân địch (chiếm tỷ lệ 46,4% tổng số lực lượng địch bị tiêu diệt); làm tan rã trên 20 vạn tên (chiếm tỷ lệ 35%) và kiềm chế, phân tán trên 90% tổng số lực lượng địch trên toàn chiến trường, khiến đại tướng Nava phải thú nhận: “quân Pháp đông nhưng chỉ để được 10% lực lượng cơ động chiến lược”. Vì vậy, chiến công của lực lượng DQTV và bộ đội địa phương đã góp phần cùng bộ đội chủ lực, giành thắng lợi quyết định trong chiến dịch Điện Biên Phủ “lừng lẫy Điện Biên, chấn động địa cầu” và giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954.

  Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp của dân tộc ta giành thắng lợi đã chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của chủ nghĩa thực dân. Lực lượng dân quân, du kích và tự vệ đã đóng góp công sức và xương máu vô cùng to lớn vào chiến công chung của toàn dân tộc.

  Trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và chống Mỹ cứu nước đấu tranh giải phóng miền Nam, lực lượng DQTV ở miền Bắc đã tích cực tham gia cải cách ruộng đất, đánh đổ địa chủ, phong kiến, khôi phục và đẩy mạnh sản xuất; tham gia bắt gọn nhiều toán biệt kích Mỹ – Ngụy tung ra miền Bắc (nhất là những năm 1960 – 1963). Trong chống chiến tranh phá hoại miền Bắc chủ yếu bằng không quân, hải quân hiện đại của đế quốc Mỹ, lực lượng DQTV ở Miền bắc đã được tăng cường nhiều loại vũ khí tương đối hiện đại, cùng với mạng lưới bắn máy bay địch bay thấp bằng súng bộ binh hình thành lưới lửa tầm thấp dày đặc vô cùng lợi hại đã phối hợp chặt chẽ với bộ đội phòng không, không quân bắn rơi nhiều máy bay địch (riêng lực lượng DQTV đã độc lập bắn rơi 424 chiếc), bắt sống nhiều giặc lái, bắn chìm và bắn cháy nhiều tàu chiến địch.

  Lực lượng dân quân du kích ở miền Nam trong kháng chiến chống Mỹ cứu nước đã tỏ rõ khả năng anh dũng phi thường, luôn chủ động đánh địch bằng mọi thứ vũ khí, vận dụng các hình thức đánh địch hết sức phong phú, sáng tạo trên khắp 3 vùng chiến lược; kết hợp chặt chẽ đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang, 3 mũi giáp công, hình thành thế trận chiến đấu, phát triển các căn cứ chiến đấu, vành đai du kích, vành đai diệt Mỹ; thực hiện trụ bám kiên cường, giữ thế xen kẽ, cài răng lược với địch. Qua hơn 20 năm chiến đấu anh dũng, kiên cường, mưu trí, sáng tạo, lực lượng dân quân du kích và tự vệ miền Nam đã cùng với bộ đội chủ lực, bộ đội địa phương và các lực lượng khác làm thất bại hoàn toàn các chủ trương chiến lược của địch như “Bình định”, “Ấp chiến lược”, gom dân “tát nước bắt cá”, “chiến tranh đặc biệt”, “chiến tranh cục bộ”, “Việt Nam hóa chiến tranh”… đã góp phần vô cùng quan trọng vào đại thắng mùa xuân 1975, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước.

  Về chiến tranh du kích ở miền Nam một  số nhà báo và chính giới Mỹ đã phải thừa nhận; “cuộc chiến tranh du kích là một nghệ thuật mà Việt Cộng đã trở thành bậc thầy, những nghệ sỹ vĩ đại trong nghệ thuật đó” (Đê – Vít – Bớc – Xtam, nhà báo Mỹ), hoặc “chúng ta phải đương đầu với quân du kích tài tình chưa từng thấy trong lịch sử loài người” (R.Rát – Xét, Chủ tịch Ủy ban quân lực Thượng Nghị viện Mỹ).

  Từ khi cả nước độc lập, thống nhất đi lên chủ nghĩa xã hội, lực lượng DQTV đã làm nòng cốt cho nhân dân ở cơ sở khắc phục hậu quả chiến tranh, tích cực rà phá tháo gỡ bom, mìn địch giải phóng hàng triệu ha đất canh tác để nhân dân khôi phục sản xuất, tiếp tục truy quét tàn quân, bọn phản động của địch còn cài cắm lại. Lực lượng DQTV đã được huy động hàng triệu lượt người tham gia xây dựng tuyến phòng thủ biên giới; phối hợp và phục vụ bộ đội chiến đấu góp phần quan trọng vào thắng lợi của 2 cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới phía Bắc và biên giới Tây Nam; phối hợp với Công an nhân dân và các lực lượng khác thực hiện tốt việc bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước.

  Trải qua 90 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, lực lượng DQTV là lực lượng vũ trang quần chúng, sinh ra và lớn lên trong phong trào cách mạng của nhân dân, gắn bó mật thiết với quê hương, làng bản, với từng căn nhà, đường phố, công nông, lâm trường, nhà máy, xí nghiệp. Sống chiến đấu trong lòng dân, được nhân dân thương yêu, đùm bọc. Trong suốt 90 năm vượt qua đầy khó khăn, gian khổ, thử thách, hy sinh, các thế hệ cán bộ, chiến sỹ DQTV đã hết lòng trung thành với Tổ quốc, với nhân dân, với sự nghiệp cách mạng của Đảng, chiến đấu kiên cường, mưu trí, dũng cảm lao động học tập, công tác hiệu quả, sáng tạo và đã lập nhiều chiến công to lớn; góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và các lực lượng vũ trang nhân dân giành nhiều thắng lợi lịch sử trong cách mạng tháng 8 năm 1945, trong sự nghiệp đấu tranh giải phòng dân tộc thống nhất đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN và sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước.

  Để ghi nhận những công lao và thành tích của lực lượng DQTV qua các thời kỳ đã có nhiều tập thể và cá nhân được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu “ Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân” trong đó có những tập thể tiêu biểu như: Đại đội dân quân nữ Ngư Thuỷ – Lệ Thuỷ – Quảng Bình, đại đội dân quân gái Tiền Hải – Thái Bình, trung đội lão dân quân Hoằng Hóa – Thanh Hóa, dân quân du kích huyện Củ Chi – Thành phố Hồ Chí Minh, huyện Giồng Trôm, Mỏ Cày – Bến Tre… và hàng ngàn, hàng vạn tấm gương anh hùng tiêu biểu khác đã góp phần tô thắm thêm những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam, dân tộc anh hùng.

  Kỷ niệm 90 năm ngày truyền thống dân quân tự vệ, chúng ta càng tưởng nhớ, ghi sâu trong từng trái tim, khối óc mỗi người về công lao to lớn của Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ vĩ đại của Đảng ta, của dân tộc ta, tinh hoa văn hóa của nhân loại, người Cha thân yêu của lực lượng vũ trang nhân dân.

Phần hai

TRUYỀN THỐNG CỦA LỰC LƯỢNG DQTV LÂM ĐỒNG TRONG THỜI KỲ KHÁNG CHIẾN CHỐNG THỰC DÂN PHÁP, ĐẾ QUỐC MỸ

Lịch sử đấu tranh và trưởng thành của DQTV Lâm Đồng gắn với lịch sử chiến đấu lâu dài của lực lượng vũ trang và nhân dân các dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ.

1. Thời kỳ kháng chiến chống Pháp

Trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, Lâm Đồng là một tỉnh (chiến trường) cực kỳ khó khăn gian khổ, xa sự chỉ đạo và chi viện của Trung ương trong kháng chiến chống Pháp và những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ, Lâm Đồng đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Liên khu 5 từ tháng 7/1961 cho đến khi kết thúc chiến tranh do Khu ủy và Bộ tư lệnh Quân khu 6 lãnh đạo và chỉ đạo kháng chiến. Thời kỳ chống Pháp, Lâm Đồng có 03 huyện và 01 thị xã. Là một địa bàn nằm sâu trong vùng địch kiểm soát, tổ chức bộ máy ngụy quân, ngụy quyền từ tỉnh xuống đến thôn, ấp, tập trung ở đây nhiều trường đào tạo, nhiều lực lượng, tổ chức hành quân càn quét, vây ép bắt bớ, khủng bố phong trào… gây cho ta rất nhiều khó khăn trong việc xây dựng thực lực cách mạng trong nhân dân, xây dựng lực lượng vũ trang cũng như hoạt động tác chiến của lực lượng vũ trang.

Ngay sau khi cách mạng tháng 8 thành công, chính quyền cách mạng ở Lâm Viên và Đồng Nai Thượng đã tích cực khẩn trương triển khai thực hiện nhiệm vụ xây dựng và phát triển lực lượng vũ trang – Mặt trận Việt  Minh đã kêu gọi các tầng lớp nhân dân, vận động thanh niên công nhân gia nhập lực lượng vũ trang cách mạng, vì vậy chỉ trong một thời gian ngắn ta đã thành lập được một số phân đội vệ quốc quân và du kích chiến đấu, lúc này lực lượng của ta còn yếu và mỏng nhưng với tinh thần quyết tâm tiêu diệt địch ta đã tổ chức phòng tuyến chiến đấu, điển hình như ngày 09/11/1945 khi quân Nhật với hơn 300 quân có xe pháo yểm trợ hành quân từ hướng Sài Gòn lên để chiếm lại tỉnh Đồng Nai Thượng và Lâm Viên đã bị lực lượng ta tổ chức chặn đánh tại đèo Bảo Lộc, trận này ta diệt và làm bị thương hơn 30 tên, phá huỷ 01 xe quân sự, trận đánh tuy nhỏ nhưng đáng ghi nhớ chiến công của lực lượng vệ quốc quân trên đất Đồng Nai thượng. Đến những năm 1950 – 1951 ngoài những lực lượng đã được thành lập trước, thì nhiều đội vũ trang tuyên truyền, đội cảm tử được thành lập rộng khắp ở các huyện và thị xã Đà Lạt, trong thời gian dài hoạt động quân sự của lực lượng ta đã gây cho địch nhiều thiệt hại đáng kể, điển hình như những trận đột nhập biệt thự Hoa Hồng (Thị xã Đà Lạt) của đội cảm tử Phan Như Thạch  ngày 11/5/1951 diệt 3 tên địch trong đó có tên Hazz Vieto giữ chức vụ phó thanh tra Miền nam Đông Dương trực tiếp phụ trách Nam Tây Nguyên và Đà Lạt, thu 01 súng ngắn, 01 súng săn, 02 quả lựu đạn, 01 xe hơi. Trong cuộc chiến Đông xuân 1953 – 1954 cùng với chiến trường cả nước hệ thống vũ trang tỉnh Lâm Đồng đã có nhiều hoạt động phối hợp với cả nước dũng cảm chiến đấu tiêu hao, tiêu diệt nhiều sinh lực địch tiêu biểu như đêm ngày 07/4/1954 lực lượng du kích xã Sơn Điền – Di Linh phối hợp tác chiến với lực lượng chủ lực của chiến trường cực Nam Trung bộ tiến công tiêu diệt đồn Lađây, đồn Giáp Bát diệt 01 đại đội, 02 trung đội, bắt 111 tên (có 02 tên sỹ quan Pháp chỉ huy đồn), thu 60 khẩu súng tiểu liên, 15 khẩu trung liên, 01 khẩu pháo 94ly và trang bị của địch, giải phóng hơn 20.000 dân mở ra một vùng giải phóng rộng lớn phía Đông nam tỉnh Lâm Đồng. Riêng trung đội du kích xã phục kích ở buôn B’Rang chặn đánh địch càn quét, diệt bắt 47 tên, thu 47 khẩu súng, tiếp đó cùng với lực lượng vũ trang, ngày 10/4/1954 đánh phục kích giao thông đường số 28, diệt 30 tên, phá huỷ 01 xe quân sự và thu toàn bộ vũ khí. Tuy cơ sở cách mạng còn ít, lực lượng phát triển chưa mạnh nhưng dưới sự lãnh đạo của Ban cán sự Đảng và Ủy ban kháng chiến với sự giúp đỡ đùm bọc của nhân dân các dân tộc trong tỉnh lực lượng vũ trang tỉnh Lâm Đồng đã đánh trên 40 trận, diệt 407 tên, bắt 20 tên và làm bị thương nhiều tên, thu 245 súng các loại trong đó 01 pháo 94 ly, góp phần cùng quân và dân cả nước làm nên chiến thắng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp.

2. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ

Các đội vũ trang tuyên truyền, các đội công tác vũ trang đã có sự phát triển mạnh mẽ về lực lượng từ năm 1961 đến năm 1969 ta đã có 02 tiểu đoàn, 6 đại đội tập trung của tỉnh, ở thị xã Đà Lạt có các đội biệt động có trên 1.500 du kích chiến đấu, hoạt động quân sự của ta lúc này đã có sự phát triển mạnh, nhiều trận đã gây cho địch thiệt hại nặng nề điển hình như những trận phối hợp với quân chủ lực của Quân khu tập kích quân địch ở Đầm Ròn diệt hơn 300 tên địch, phá huỷ 02 khẩu pháo, bẻ gãy âm mưu hành quân xây dựng cứ điểm của địch thực hiện chủ trương “mở mảng, mở vùng, giành đất” từ đầu tháng 5 đến đầu tháng 7/1965 lực lượng ta sau 02 tháng chiến đấu liên tục đã loại khỏi vòng chiến đấu hơn 800 tên địch, thu trên 600 súng các loại, phá 52/80 khu tập trung và ấp chiến lược, giải phóng hơn 30.000 dân mở ra vùng giải phóng rộng lớn từ Tây Bắc Di Linh đến Tây Bắc Bảo Lộc và từ Nam Bảo Lộc xuống đến Phương Lâm (Đồng Nai bây giờ).

Trong tổng tiến công và nổi dậy Mậu thân 1968 lực lượng vũ trang Lâm Đồng đã làm chủ và trụ lại trong thị xã 12 ngày đêm. Loại khỏi vòng chiến đấu hơn 2.000 tên địch, vào đợt 2 qua hai ngày đêm chiến đấu ta đánh thiệt hại nặng liên đoàn biệt động số 02, 01 biệt đoàn cảnh sát dã chiến, 02 trung đội dân vệ, phá huỷ nhiều phương tiện chiến tranh của địch… Bước vào thời kỳ chống chiến lược Việt Nam hóa chiến tranh của địch, chiến trường Lâm Đồng lúc này vô cùng khó khăn, lực lượng chưa được bổ sung lương thực, đạn dược, thuốc men thiếu thốn nghiêm trọng, lúc này địch đánh phá mạnh. Trước yêu cầu của chiến trường. cuối tháng 5 năm 1970 ta đã tổ chức đợt tổng công kích vào thị xã Đà Lạt (gọi là TK70) sau hơn 02 ngày đêm chiến đấu quyết liệt ta đã đánh phá 23 mục tiêu quan trọng, bẻ gãy nhiều đợt phản kích của địch, loại khỏi vòng chiến đấu hơn 1.000 tên địch, phá hủy 17 xe quân sự, thắng lợi này đã có tác động tích cực đến phong trào cách mạng của địa phương cũng như toàn miền.

Từ đầu cuộc kháng chiến chống Mỹ cho đến khi kết thúc chiến tranh, LLVT của tỉnh đã vượt qua nhiều cam go thử thách, khắc phục mọi khó khăn, bám đất bám dân, kiên quyết tiến công địch, đã đánh 4.140 trận trên cả 3 vùng chiến lược, diệt gọn 5 tiểu đoàn, bắt hơn 1.000 tên, phá hủy hơn 700 xe quân sự, bắn rơi 127 máy bay, phá huỷ 39 khẩu pháo, thu hơn 1.500 súng và nhiều phương tiện chiến tranh của địch. Như xã Sơn Điền – Di Linh trong kháng chiến chống Mỹ đã phối hợp với lực lượng vũ trang tỉnh – Quân khu liên tục đánh địch, góp phần đánh bại nhiều cuộc càn quét của địch đánh phá vào vùng căn cứ, có trận riêng lực lượng du kích xã vây đánh diệt cả trung đội lính Mỹ – Ngụy, thu 40 khẩu súng các loại, bắn rơi tại chỗ 02 máy bay (có 01 máy bay L19, 01 máy bay cán gáo), bắn bị thương nhiều chiếc khác. Nhiều đồng chí đã anh dũng hy sinh, như đ/c K’Đen sinh ra trên quê hương buôn Đạch, lớn lên ở căn cứ (Mạng Yệu – Chí Lai) anh đã chiến đấu dũng cảm và anh dũng hy sinh ngày 15/01/1966, ngày 30/8/1995 liệt sỹ K’Đen được Nhà nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam truy tặng danh hiệu anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.

Đặc biệt là xã Lộc Bắc trong kháng chiến chống Mỹ lực lượng dân quân du kích xã đánh hàng trăm trận với nhiều đối tượng địch, Mỹ, Chư hầu, Ngụy quân, Ngụy quyền, diệt 89 tên, tổ chức 97 lần đánh máy bay, bắn rơi 13 chiếc, bắn bị thương 08 chiếc khác, (điển hình như trận đánh máy bay ngày 07- 08/7/1970 của du kích xã Lộc Bắc do đ/c K’Vét chỉ huy tại buôn Lao Xiêng, buôn Bà Tạch với khẩu CKC đã bắn rơi chiếc máy bay HUIA của tên tướng 3 sao KISI Mỹ – Tư lệnh sư đoàn kỵ binh bay và 07 sỹ quan tham mưu), Đảng bộ, nhân dân, lực lượng dân quân du kích xã Lộc Bắc và xã Sơn Điền là một trong những vùng căn cứ cách mạng tiêu biểu, có nhiều thành tích công lao đóng góp trong cuộc chiến tranh giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, luôn giữ vững và phát huy truyền thống kiên cường bất khuất của dân tộc. Ngày 20/12/1994 Đảng, Nhà nước ta đã phong tặng xã Lộc Bắc và xã Sơn Điền danh hiệu: “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

Từ khi cả nước độc lập, thống nhất đi lên CNXH, DQTV Lâm Đồng đã làm nòng cốt cho nhân dân khắc phục hậu quả chiến tranh, tham gia truy  quét Fulrô… Đã độc lập và phối hợp chiến đấu có hiệu quả 208 trận, diệt 150 tên, bắn bị thương 78 tên, bắt sống 250 tên, thu 308 súng các loại  (từ 1977 – 1988). Tham gia phát động quần chúng và gọi hàng trăm tên Fulrô ngoài rừng ra hàng trở về với nhân dân, đồng thời bóc gỡ nhiều tổ chức Fulrô trong dân… những trận đánh cụ thể như:

– Ngày 13/5/1977 dân quân cơ động xã Ninh Gia phối hợp với dân quân cơ động huyện tổ chức phục kích tại thôn Đăng Son khi Fulrô vào làng móc nối tiếp tế, lực lượng dân quân đã bất ngờ nổ súng tiêu diệt 05 tên tại chỗ, bắt sống 09 tên và kêu gọi 11 tên ra hàng, thu 01 khẩu súng Cabin, 02 khẩu AR15, 01 khẩu M72 và một số đạn. Về ta đ/c Đặng Văn Chảy xã đội phó hy sinh, đ/c Đặng Đình Phúc trung đội trưởng bị thương nặng.

– Ngày 04.8.1981: 06 dân quân xã Đầm Ròn độc lập truy quét diệt 2 tên (1 đại úy, 1 thiếu úy) thu 04 súng.

– Tháng 8/1981 lực lượng du kích xã Đầm Ròn phối hợp với bộ đội huyện và d200c truy quét tiêu diệt 11 tên, bắt sống 22 tên và thu một số vũ khí.

– Ngày 17.10.1986: 10 dân quân xã Đạ Cháis phối hợp với trinh sát huyện tập kích diệt 03 tên, bắt sống 03 tên, thu 06 súng, trong đó có tên Enoul M’Bột đại tá Phó tổng Tham tham mưu trưởng Fulrô.

– Năm 1987 lực lượng dân quân Đạ Sar và Đạ Cháis phối hợp với bộ đội huyện tổ chức truy quét bao vây và gọi hàng toán Fulrô ở ngoài rừng gồm 06 tên.

– Lực lượng DQTV phối hợp với bộ đội địa phương liên tục truy quét trên các địa bàn trọng điểm đến cuối tháng 8/1987 toán Fulrô do thiếu tá TaBulSul phó Tư lệnh Quân khu 4 cùng 07 tên đem toàn bộ vũ khí ra hàng tại xã Liên Đầm – Di Linh. Ngày 23/8/1987 ta sử dụng lực lượng bao vây, đột nhập vào sào huyệt của Fulrô, bắt toàn bộ toán của Tư lệnh Quân khu 4 và gọi hàng 08 tên ở Lạc Lâm – Đơn Dương. Tính đến cuối năm 1987 lực lượng Fulrô cơ bản đã tan rã hoàn toàn, còn khoảng 12 tên của toán K’Long Nhão và K’Sờn lẩn trốn ngoài rừng.

– Ngày 04.10.1988: 03 dân quân thị trấn Đạ Tẻh phối hợp 3 trinh sát huyện truy quét diệt 01 tên, bắn bị thương 01 tên. Dân quân  Đạ  Huoai, Bảo Lâm phối hợp với các lực lượng khác liên tục truy quét, tháng 3 năm 1996 toán  K’Long Nhão (05 tên) ra hàng tại Đạ Huoai, tháng 7 năm 1997 toán K’Sờn (07 tên) ra hàng tại Bảo Lâm, đồng thời cũng xóa sổ hoàn toàn lực lượng Fulrô trên địa bàn tỉnh.

Phần ba

LỰC LƯỢNG DQTV LÂM ĐỒNG TIẾP TỤC PHẤN ĐẤU  NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG TỔNG HỢP ĐÁP ỨNG YÊU CẦU NHIỆM VỤ BẢO VỆ TỔ QUỐC, BẢO VỆ CHẾ ĐỘ XHCN TRONG TÌNH HÌNH MỚI

Cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở đã thường xuyên quán triệt nghiêm túc các quan điểm, chủ trương của Đảng, pháp luật nhà nước về nhiệm vụ quân sự – quốc phòng địa phương nói chung và nhiệm vụ công tác DQTV nói riêng, trọng tâm là Kết luận số 64-KL/TW ngày 30/10/2019 của Bộ Chính trị về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Nghị quyết số 28-NQ/TW tiếp tục xây dựng các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương thành KVPT vững chắc trong tình hình mới, Nghị quyết 44-NQ/TW ngày 24/11/2023 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII về “Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới”; các văn bản quy định chi tiết hướng dẫn thi hành Luật và các chỉ thị, mệnh lệnh của Bộ Quốc phòng, Bộ Tư lệnh Quân khu 7 về quốc phòng. Xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ quân sự, quốc phòng của địa phương, những đóng góp quan trọng của lực lượng DQTV trong phát triển kinh tế – xã hội, cũng như nhiệm vụ quân sự, quốc phòng, an ninh,… Bộ CHQS tỉnh đã tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương triển khai thực hiện các văn bản quy phạm pháp luật về DQTV đến nay đạt được một số kết quả nổi bật:

 Xây dựng lực lượng DQTV có đủ số lượng, độ tin cậy ngày càng cao; đảm bảo chỉ tiêu trên giao; xây dựng Ban CHQS cấp xã, Ban CHQS cơ quan, tổ chức đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ xây dựng lực lượng ở cơ sở; 100% Đảng bộ cấp xã có chi bộ quân sự và 100% chi bộ quân sự có cấp ủy; đảng viên trong DQTV đạt 29,3%; Đoàn viên đạt 60,75%.

  Hàng năm có trên 90% cán bộ, chiến sĩ DQTV được giáo dục chính trị, pháp luật, bồi dưỡng, tập huấn, huấn luyện, diễn tập đúng theo chương trình cơ bản cho từng đối tượng, sát với tình hình, nhiệm vụ của địa phương; 100% cán bộ, chiến sỹ DQTV có bản lĩnh chính trị vững vàng, sẵn sàng nhận và hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao góp phần xây dựng khu vực phòng thủ cấp tỉnh, huyện vững chắc.

Lực lượng DQTV phối hợp trong thực hiện Nghị định 02/2020/NĐ-CP của Chính phủ có chất lượng, hiệu quả được nâng lên như: Phối hợp với lực lượng công an cấp xã trong trao đổi thông tin, vận động nhân dân thực hiện phong trào toàn dân bảo vệ an ninh tổ quốc, xây dựng cơ sở an toàn về an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; tuần tra, canh gác giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội; trong huấn luyện, diễn tập; thực hiện nhiệm vụ phòng, chống và khắc phục hậu quả thiên tai, dịch bệnh, tìm kiếm, cứu nạn, bảo vệ môi trường, phòng thủ dân sự, đấu tranh phòng chống tội phạm và các nhiệm vụ khác được phân công; phối hợp với lực lượng kiểm lâm và các lực lượng khác trong công tác tuyên truyền, tập huấn, huấn luyện bảo vệ và phòng, chống cháy rừng ngày càng có hiệu quả. Hàng năm, lực lượng DQTV có hơn 28 ngàn lần tham gia hoạt động độc lập, hơn 2 ngàn lần tham gia hoạt động phối hợp, hơn 400 lần tuần tra địa bàn khu công nghiệp.

  Lực lượng DQTV phối hợp với các lực lượng thuộc các ban, ngành, đoàn thể tham gia xây dựng nông thôn mới, làm công tác dân vận và kết hợp tuyên truyền vận động nhân dân đã đem lại hiệu quả thiết thực, góp phần nâng cao nhận thức, trách nhiệm và nghĩa vụ của nhân dân trong thực hiện chủ trương, chính sách của Đảng và chấp hành pháp luật của nhà nước. Hàng năm lực lượng DQTV tham gia hơn 100 lần khắc phục hậu quả thiên tai, tổ chức hàng ngàn ngày công lao động tham gia giúp dân làm đường khai thông cống, rãnh, gieo trồng, thu hoạch hoa màu,…

  Kỷ niệm 90 năm ngày truyền thống DQTV, cán bộ, chiến sỹ DQTV cùng tự hào với truyền thống xây dựng, chiến đấu vẻ vang của mình, càng thường xuyên nâng cao cảnh giác, xây dựng ý chí chiến đấu, phấn đấu xây dựng lực lượng DQTV không ngừng lớn mạnh; mỗi cán bộ, chiến sỹ trên từng vị trí, trên từng mặt trận công tác cần tích cực phấn đấu hoàn thành xuất sắc các nhiệm vụ được Đảng và nhân dân giao phó.  Xứng đáng với lời khen ngợi của Bác Hồ muôn vàn kính yêu “…DQTV và du kích là lực lượng của toàn dân tộc, là một lực lượng vô địch, là bức tường sắt của Tổ quốc, vô luận kẻ địch hung bạo thế nào hễ đụng vào lực lượng đó, bức tường đó, thì địch nào cũng phải tan rã”./.

Theo (https://lamdong.edu.vn/vi/sgddetail/?param=de-cuong-tuyen-truyen-ky-niem-90-nam-ngay-truyen-thong-dan-quan-tu-ve-viet-nam-28-3-1935-28-3-2025)